SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3 - 4 tuổi làm quen với toán ở trường mầm non

pdf 19 trang Diệu Hiền 17/04/2025 160
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3 - 4 tuổi làm quen với toán ở trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfskkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_cho_tre_3_4_tuoi_l.pdf

Nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3 - 4 tuổi làm quen với toán ở trường mầm non

  1. SKKN “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3- 4 tuổi làm quen với toán ở trường mầm non”. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực phát triển nhận thức Thời gian áp dụng sáng kiến: từ tháng 09 năm 2022 đến tháng 05 năm 2023 Đơn vị áp dụng sáng kiến: Trường Mầm non Hồng Việt. Địa chỉ : xã Hồng Việt - huyện Đông Hưng - tỉnh Thái Bình. BÁO CÁO SÁNG KIẾN Hiệu quả áp dụng, phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến I. TÊN SÁNG KIẾN. “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3- 4 tuổi làm quen với toán ở trường mầm non”. II. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến: Bác Hồ nói: “Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh tế văn hoá”, sản phẩm của giáo dục chính là con người, mà con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước, trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ. Vì vậy việc chăm sóc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ sau này. Trẻ lứa tuổi MN, mọi khả năng đang được hình thành và phát triển mạnh mẽ, tư duy của trẻ phát triển ở tần số cao nhất của cuộc đời con người, quá trình phát triển tâm lý diễn ra rất phức tạp, nhanh và nhạy cảm, nó thường xuyên thay đổi có lúc thì hứng thú cao, có lúc lại không hứng thú, sự hứng thú của trẻ không bền, trẻ lại chưa biết đọc, biết viết, mọi tri thức đến vơi
  2. trẻ chủ yếu thông qua sự dạy bảo tổ chức hướng dẫn của người lớn, của cô giáo. Xuất phát từ vai trò cụ thể đó nên hoạt động làm quen với toán không thể thiếu trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Vì vậy việc nâng cao chất lượng dạy trẻ, tạo hứng thú cho trẻ tích cực tham gia hoạt động làm quen với toán là vấn đề quan trọng trong chương trình giáo dục mầm non. Chúng ta đều biết đặc điểm nhận thức của trẻ ở lứa tuổi mầm non là nhận biết thông qua hoạt động: “Học mà chơi, và chơi mà học” cho nên hoạt động chủ đạo trong trường mầm non là hoạt động vui chơi. Quan điểm thích hợp cho phép tích hợp nội dung giáo dục của các lĩnh vực trong mọi hoạt động của trẻ, bên cạnh đó nội dung chương trình giáo dục đưa ra là nội dung chương trình khung mang tính mở, tạo cơ hội cho giáo viên có thể linh hoạt trong việc xác định lựa chọn và tổ chức các hình thức hoạt động sao cho thật phong phú, gần gũi với cuộc sống của trẻ tại địa phương mình. Chính cách tiếp cận này sẽ giúp trẻ có hứng thú tìm hiểu khám phá theo nhiều cách khác nhau, ham hiểu biết, thích tìm tòi các sự vật, hiện tượng xung quanh, tìm hiểu mối quan hệ giữa các đối tượng, mối quan hệ giữa trẻ với môi trường tự nhiên, xã hội gần gũi, phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. III. Mô tả giải pháp kỹ thuật. Năm học 2022- 2023 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công trực tiếp giảng dạy lớp 3TA với tổng số cháu là 24 cháu trong đó 16 cháu nữ và 28 cháu nam. Bước vào thực hiện tôi thấy có những thuận lợi và khó khăn sau: *Thuận lợi: - Luôn được sự hướng dẫn, chỉ đạo sát sao về chuyện môn của Phòng giáo dục huyện Đông Hưng, Ban giám hiệu trường Mầm non Hồng Việt. - BGH luôn bố trí dự giờ, chéo trong trường, tham khảo các tiết dạy của những giờ kiến tập trường bạn. Động viên khuyến khích kịp thời mỗi khi giáo viên có những sáng tạo trong các hoạt động. -Trao đổi rút kinh nghiệm trong tổ soạn bài, chị em đồng nghiệp giúp đỡ nhau cùng tiến bộ từ đó chúng tôi đã nâng cao được chất lượng dạy và học . - Nhà trường đã đầu tư cơ sở vật chất, thường xuyên động viên, khuyến khích giáo viên sưu tầm và tự làm các loại đồ dùng, đồ chơi tự tạo nhằm phục vụ cho việc tổ chức các hoạt động làm
  3. quen với toán. - Là giáo viên 2 năm được phân công chăm sóc giáo dục trẻ 3- 4 tuổi, có tinh thần trách nhiệm, luôn quan sát nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý, thói quen của từng trẻ trong lớp. Là một giáo viên tâm huyết với nghề, có lòng yêu thương trẻ, tận tình với công việc. Luôn có ý thức phấn đấu vươn lên, thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, thông tin trên mạng có liên quan đến việc chăm sóc giáo dục trẻ để áp dụng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ hàng ngày nhất là việc sưu tầm và tổ chức các hoạt động, trò chơi làm quen với toán. - Lứa tuổi trẻ lớp tôi tương đối đồng đều, phát triển tốt về thể chất, trẻ rất thích tham gia vào hoạt động vui chơi. Trẻ thực sự say mê, hào hứng với các hoạt dộng làm quen với toán. - Nhiều phụ huynh nhiệt tình chia sẻ với giáo viên ở lớp về tình hình của trẻ ở nhà và luôn quan tâm đến trẻ, thường xuyên dành thời gian trao đổi với cô giáo để cùng chăm sóc và giáo dục trẻ. * Khó khăn: - GV chưa có nhiều sáng tạo trong các hình thức tổ chức hoạt động toán. Ít tổ chức các hoạt động để trẻ được trải nghiệm, ôn luyện củng cố kiến thức.Giáo viên chưa chú ý lồng ghép vào trong các hoạt động khác và chưa quan tâm nhiều đến việc thiết kế môi trường hoạt động cho trẻ. - Đồ dùng trực quan phục vụ cho các hoạt động còn sơ sài, chưa sáng tạo dẫn tới giờ học còn khô khan, cứng nhắc. - Một số cháu đầu năm mới ra lớp nên còn nhút nhát không chú ý, thiếu tự tin, không tích cực trong hoạt động. - Một số trẻ nhận thức còn kém, tư duy chưa nhạy bén. Chưa chú ý tập trung hứng thú trong giờ học toán. - Một số bậc phụ huynh còn quá chú trọng đến việc làm ăn kinh tế, ít quan tâm đến việc học tập của con nên việc nhận thức của con con về các biểu tượng về toán học còn nhiều hạn chế. Kết quả : Từ thực tế trên tôi đã khảo sát từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát và phân loại chất lượng học sinh trên cơ sở đã tôi tìm ra biện pháp phù hợp giúp trẻ lớp tôi học tốt môn Toán như sau: Bảng khảo sát ban đầu: Nội dung Số Đầu năm học 2022- 2023
  4. trẻ Đạt Tỷ Không Tỷ lệ đạt lệ Trẻ biết nhận dạng và gọi 24 15 63 9 37 tên các hình tròn, hình vuông, hình tam giác, hình chữ nhật. Trẻ biết so sánh hai đối 24 16 67 8 33 tượng về kích thước và nói được từ to hơn- nhỏ hơn. Trẻ biết sắp xếp theo quy 24 12 50 12 50 tắc 1-1 Trẻ biết tách một nhóm 24 10 42 14 58 đối tượng có số lượng trong phạm vi 5 thành 2 nhóm. III. 1.Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến: *Giải pháp 1: Tạo môi trường học tập trong lớp nhằm cung cấp kiến thức toán học cho trẻ. Trong những năm trước khi có sáng kiến, tôi đã thực hiện giải pháp “Tạo môi trường học tập trong lớp nhằm cung cấp kiến thức toán học cho trẻ” và đạt được kết quả nhất định; tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, cụ thể như sau: Ưu điểm: Nhà trường đã tạo kiện về cở sở vật chất, giúp giáo viên có thể sưu tầm những tranh ảnh, đồ dùng, đồ chơi để trang trí lớp học, các góc tạo môi trường học toán cho trẻ trong lớp học. Hạn chế: Số lượng đồ dùng, tranh ảnh, đồ chơi chưa được phong phú và đa dạng. Nguyên nhân: Thời gian biểu trong ngày của trẻ diễn ra liên tục khiến giáo viên ít có thời gian để sưu tầm tranh ảnh và tìm tòi sang tạo trong cách trang trí lớp tạo môi trường học toán ở trong lớp.
  5. * Giải pháp 2: Tổ chức tốt các hoạt động làm quen với toán, sử dụng những trò chơi học tập, sử dụng các câu hỏi mở để kích thích tư duy của trẻ. Trong những năm trước khi có sáng kiến, tôi đã thực hiện giải pháp “Tổ chức tốt các hoạt động làm quen với toán, sử dụng những trò chơi học tập, sử dụng các câu hỏi mở để kích thích tư duy của trẻ.” và đạt được kết quả nhất định, tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, cụ thể như sau: Ưu điểm: Giáo viên được thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Phát huy vai trò của đội ngũ tổ trưởng, tổ phó. Hạn chế: Hình thức tổ chức còn cũ , giáo viên còn là người chủ đạo Nguyên nhân: Đa số giáo viên thực hiện một cách máy móc, chưa có nhiều sáng tạo, chưa chủ động trong các hoạt động dạy trẻ. Trong mọi hoạt động giáo viên còn sợ trẻ của mình còn nhỏ không thể tiếp nhận hết kiến thức mà mình đưa ra nên giáo viên thường nói quá nhiều, hướng dẫn trẻ quá tỉ mỉ khiến trẻ bih thụ động không linh hoạt. *Giải pháp 3: Tích hợp làm quen với thuật ngữ toán học và các chữ số cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Trước khi có sáng kiến, tôi đã thực hiện giải pháp “Tích hợp làm quen với thuật ngữ toán học và các chữ số cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi” và đạt được kết quả nhất định; tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, cụ thể như sau: Ưu điểm: Giáo viên chủ động trong mọi hoạt động và sử dụng từ thuật ngữ phù hợp trong mọi tình huống vào mọi lúc mọi nơi. Hạn chế: Trẻ ở lứa tuổi này vốn từ đang phát triển nhưng cách diễn đạt còn hạn chế nên cô phải sử dụng nhiều thuật ngữ toán ở mọi lúc mọi nơi cho trẻ nhớ dần. Nguyên nhân: Trẻ mầm non là dễ nhớ, mau quên, nên việc cung cấp kiến thức ở các hoạt động học chưa đủ để trẻ nhớ lâu. *Biện pháp 4: Phối kết hợp với phụ huynh để dạy trẻ học tốt hoạt động làm quen với Toán. Trước khi có sáng kiến, tôi đã thực hiện giải pháp “Phối kết hợp với phụ huynh để dạy trẻ học tốt hoạt động làm quen
  6. với Toán” và đạt được kết quả nhất định; tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, cụ thể như sau: Ưu điểm: Giáo viên thường xuyên được tiếp xúc với phụ huynh nên dễ dàng trao đổi về mọi hoạt động của các con ở lớp . Hạn chế: Đa số phụ huynh còn chưa quan tâm nhiều đến việc học của con, Nguyên nhân: Đa số phụ huynh là thuần nông nên ít có thời gian để trẻ ôn lại kiến thức đã học . III.2.Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến. * Biện pháp 1: Tạo môi trường học tập trong lớp nhằm cung cấp kiến thức toán học cho trẻ. Để có một con người toàn diện, thì môi trường giáo dục là vô cùng quan trọng. Đặc biệt đối với trẻ nhỏ, từ chiếc nôi của gia đình, trẻ đến trường mầm non với bao điều thú vị cần được khám phá với đặc tính tò mò ham hiểu biết của trẻ . Môi trường cho trẻ hoạt động trong trường mầm non gồm: Môi trường trong lớp như bàn ghế, giá tủ, đồ dùng, đồ chơi, các biểu bảng, các góc hoạt động để phục vụ cho việc chăm sóc giáo dục trẻ, và môi trường ngoài lớp có trong khuôn viên nhà trường, như: Lớp học, sân vườn và môi trường ngoài khuôn viên nhà trường, như: Đường vào trường, danh lam thắng cảnh, khu vực công cộng gần trường Tất cả các điều kiện trên giúp trẻ tìm tòi, khám phá và phát hiện nhiều điều mới lạ, hấp dẫn trong cuộc sống, các kiến thức kỹ năng của trẻ được củng cố và bổ xung. Trẻ được tự lựa chọn hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm, tạo cơ hội để trẻ bộc lộ khả năng của mình. Môi trường phù hợp, đa dạng, phong phú sẽ gây hứng thú cho trẻ, góp phần hình thành và nâng cao mối quan hệ thân thiện tự tin cho trẻ, nhằm hun đúc phát triển tư duy độc lập có sáng tạo của trẻ. Tạo môi trường hoạt động cho trẻ đòi hỏi người GV cần có kế hoạch giáo dục, làm đồ dùng, đồ chơi, thiết kế các góc hoạt
  7. động theo chủ đề, chủ điểm, biết tận dụng mọi khả năng có thể kết hợp để giáo dục trẻ. Để trẻ có thể học ở mọi lúc, mọi nơi tôi đã tận dụng những khoảng tường với vị trí phù hợp để tạo môi trường làm quen với toán, sưu tầm tranh ảnh phù hợp với chủ đề để trẻ được cài lên mảng tường và đếm, cài để sắp xếp theo quy tắc cho trước hoặc dùng hình ảnh đã sưu tầm, hình ảnh của trẻ vẽ để cắt và dán vào giấy theo yêu cầu, sau đó giáo viên đóng quyển tạo những sản phẩm lưu của trẻ theo chủ đề. VD: Ở chủ đề thế giới động vật tôi dạy trẻ số lượng 2 tôi cắt những hình ảnh của các con vật thành nhóm có số lượng 2 và gài lên góc “Hãy chọn cho đúng”, đến giờ hoạt động góc, hoạt động chiều Tôi ôn luyện kiến thức thêm bớt, cung cấp kỹ năng đếm, so sánh, nhận biết các chữ số Để trẻ nhớ lại và khắc sâu thêm kiến thức như vậy trẻ sẽ nhớ lâu hơn bài học của mình (Tương tự như vậy với các chủ đề Phương tiện và luật lệ giao thông, thế giới động vật, thế giới thực vật, gia đình, nghề nghiệp) Từ những hình ảnh và các nguyên phế liệu sưu tầm được tôi bắt tay vào làm đồ dùng dạy học và trang trí lớp, việc tạo môi trường lớp theo chủ đề cũng được GV quan tâm, làm sao để phù hợp với chủ đề, làm sao để phát huy tính tích cực cho trẻ, việc lấy trẻ làm trung tâm luôn được coi trọng không chỉ trong hoạt động học mà còn trong tất cả các hoạt động khác cũng như vậy, cháu hào hứng cùng cô trang trí cho lớp thêm đẹp và lại tiết kiệm được kinh phí cho việc mua đồ dùng về trang trí lớp. VD: Làm đồ dùng từ lô tô bằng hình ảnh để dạy toán. Ở chủ đề thế giới thực vật tôi sưu tầm được từ tờ rơi quảng cáo của các siêu thị có rất nhiều hình ảnh về các loại rau quả, tôi cắt ra với số lượng là 3 và làm
  8. thẻ lô tô cho mỗi trẻ, hoặc tôi cắt rời hình ảnh đó và yêu cầu trẻ xếp theo nhóm số lượng để học Cô giáo dùng hình ảnh gắn lên bảng để các bé thử tài, bé ghép số, bé đoán giỏi Với những hình ảnh đó trẻ được luyện tập ở các hoạt động như hoạt động góc, hoạt động tự do như vậy nhằm củng cố, ôn luyện kiến thức toán mà trẻ vừa được học. Trên mảng tường giáo viên cắt dán bìa lịch có hồ nước, con cá, các cua, con ếch...trẻ tự gắn theo ý thích hoặc yêu cầu của cô. VD: Trẻ có thể tìm và gắn 2 con vật sống trong gia đình, tìm và gắn 1 con vật sống dưới nước, để trẻ có thể so sánh, thêm bớt, tạo nhóm . Ở trường tôi phần lớn dân cư vẫn sống bằng nghề nông nghiệp, những nguyên liệu từ tự nhiên luôn có sẵn như: Rơm, lá cây, hột hạt .rất nhiều và dễ kiếm, không tốn tiền mà đó là những học liệu mở, để trẻ có thể tìm tòi và khám phá, dùng trong nhiều hoạt động. Hòn sỏi, hạt gấc, hạt nhãn, hạt vải, lá cây .Dùng để đếm: Sợi len, ống hút, sợi rơm dùng để đo. Thực hiện biện pháp này tôi thấy không những đồ dùng dạy học toán của lớp tôi đầy đủ đa dạng và các hoạt động khác cũng có nhiều ví dụ tận dụng được tranh ảnh sưu tầm, nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương, nhiều loại, phong phú, đa dạng có thể dùng vào nhiều mục đích khác và đã có nhiều cô giáo trong trường cùng nhau thực hiện. Với môi trường lớp học đẹp, hấp dẫn trẻ tới trường chuyên cần hơn, mạnh dạn hơn *Biện pháp 2: Tổ chức tốt các hoạt động làm quen với toán, sử dụng những trò chơi học tập, sử dụng các câu hỏi mở để kích thích tư duy của trẻ.
  9. Với những năm học trước khi sử dụng những hình thức lên lớp cũ GV là người chủ đạo, trong một hoạt động chung vì sợ trẻ của mình còn nhỏ không thể tiếp nhận hết kiến thức mà mình đưa ra chính vì vậy mà tôi thường nói quá nhiều, hướng dẫn trẻ quá tỉ mỉ sau mỗi buổi đi dạy về tôi cảm thấy rất mệt mỏi mà bên cạnh đó kết quả thu được trên trẻ lại không cao, trẻ không nhanh nhẹn mà bị thụ động tiếp nhận kiến thức, không chịu tư duy mà chỉ chờ cô giáo nhắc rồi làm theo Vì vậy tôi nhận ra phương pháp của mình chưa phù hợp khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Qua tìm tòi và nghiên cứu tài liệu, đọc kỹ chương trình giáo dục mầm non, qua các buổi dự giờ kiến tập tôi nhận thấy chương trình giáo dục mầm non mới lấy trẻ làm trung tâm, cô giáo chỉ là người hướng dẫn. Chính vì vậy trong các hoạt động tôi đã cố gắng tạo tình huống để trẻ được trải nghiệm, tìm tòi, khám phá và tự tìm ra đáp án riêng của mình. Có những trẻ thông minh, hoạt bát thì có những đáp án đúng, sẽ có những trẻ có đáp án sai vì trẻ chưa có kỹ năng chuẩn xác,nhưng tôi không phủ nhận kết quả đó luôn mà tôi sẽ hướng dẫn hoặc thực hành cùng trẻ (Nếu trẻ làm nhiều lần mà vẫn ra kết quả sai) để tìm ra kết quả đúng, mục đích để tạo cho trẻ sự mạnh dạn, tự tin vào bản thân mình. VD: Trong bài dạy “So sánh to hơn nhỏ hơn” Tôi cho trẻ quan sát và đưa ra các câu hỏi. + Con thấy 2 quả bóng này có đặc điểm gì khác nhau? + Các con nhìn xem 2 quả bóng này quả bóng nào to hơn? quả bóng nào nhỏ hơn?. + Quả bóng to hơn có màu gì? + Quả bóng màu xanh như thế nào? VD: Trò chơi “Tạo hình bằng dây” Từ 1 sợi dây chun dài 1m gim 2 đầu vào nhau, cô nói hình nào trẻ dùng tay, chân sử dụng dây chun để tạo ra các hình theo cô yêu cầu. + Cách chơi: Khi cô nói hình tam giác, trẻ dùng 2 chân dẵm vào dây và đứng rộng chân, 1 tay cầm dây kéo cao trước ngực, nếu là hình vuông trẻ đứng, 2 tay
  10. cầm dây, 2 chân dẫm vào dây để tạo hình vuông. Hoặc GV cho trẻ kết hợp cùng nhau để làm 1 hình trẻ thích (hình chữ nhật). VD: Trò chơi “Gấp hình” + Cách chơi: Cho trẻ mảnh vải vuông, GV yêu cầu trẻ từ mảnh vài vuông có thể gấp lại để tạo ra được các hình đã học. (Gấp chéo mảnh vải vuông tạo thành hình tam giác, gấp đôi vảnh vải vuông tạo thành hình chữ nhật, từ hình chữ nhật gấp đôi để tạo thành hình vuông nhỏ hơn......) - Những trò chơi trên giáo viên có thể tổ chức ở mọi lúc, mọi nơi như trong hoạt động học, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời. VD:Trò chơi “Ai thông minh hơn” giáo viên tạo bộ đồ chơi phương tiện giao thông. Dùng xốp màu cắt thành các hình học và cho trẻ ghép các hình đó thành phương tiện giao thông như thuyền, ô tô, máy bay... Khi trẻ xếp xong cô giáo hỏi trẻ dùng những hình gì để xếp được phương tiện đó. - Trò chơi “Người thiết kế tài ba” Giáo viên đưa ra một số trang phục mùa hè (Áo, quần, mũ, ô...) bằng xốp, giấy gói hoa có mẫu xếp xen kẽ 2 đối tượng về màu sắc; về kích thước. Cô giáo yêu cầu trẻ sao chép lại cách sắp xếp của cô và nói lại cách xếp. Sau những lần trẻ được sao chép đúng mẫu của cô, để trẻ được tư duy cô cho trẻ sử dụng những nguyên liệu theo ý thích để sắp xếp xen kẽ ra một mẫu khác. Khi trẻ đã tạo ra sản phẩm cô cho các nhóm kiểm tra kết quả, đọc lại kết quả và chơi biểu diễn thời trang mùa hè. Qua việc đánh giá cuối những chủ đề đã thực hiện, chủ đề sau với chủ đề trước tôi nhận thấy một sự thay đổi rõ rệt đa số trẻ lớp tôi không còn thụ động nữa mà đã nhanh nhẹn hơn, tự tin hơn và điều đáng mừng là nhiều trẻ có tư duy logic hơn trong hoạt động làm quen với toán và các hoạt động khác và điều quan trọng là trẻ đã hứng thú, chú ý tham gia các hoạt động cùng cô.