SKKN Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 - 4 tuổi
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 - 4 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_phat_trien_von_tu_cho_tre_3_4_tuoi.pdf
Nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 - 4 tuổi
- SKKN “Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3-4 tuổi”. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ trong trường Mầm non. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường Mầm non Hồng Việt Địa chỉ: Hồng Việt- Đông Hưng- Thái Bình. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: tháng 09 năm 2022. BÁO CÁO MÔ TẢ SÁNG KIẾN. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3-4 tuổi”. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ trong trường Mầm non. Mô tả bản chất của sáng kiến: trạng giải pháp đã biết: Năm học 2021- 2022 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công trực tiếp giảng dạy lớp 3TB với tổng số cháu là 21cháu trong đó 11 cháu nữ và 10 cháu nam. Bước vào thực hiện tôi thấy có những thuận lợi và khó khăn sau: 3.1.1: Thuận lợi: - Luôn được sự hướng dẫn, chỉ đạo sát sao về chuyện môn của Phòng giáo dục huyện Đông Hưng, Ban giám hiệu trường Mầm non Hồng Việt. -Nhà trường đã khuyến khích tạo điều kiện cho chị em giáo viên học tập, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau bằng cách tổ chức các tiết
- dạy mẫu, thăm lớp, dự giờ, thao giảng trường để từ đó góp ý đúc rút kinh nghiệm. -Hai giáo viên đứng lớp 3-4 tuổi B đều đạt trình độ chuẩn, là giáo viên yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình, năng động. - Giáo viên nhiệt tình làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho việc cung cấp và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. - Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phong phú về màu sắc và hình ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ. - Lớp có diện tích khá rộng rãi, thoáng mát. Trẻ được phân chia theo đúng độ tuổi. 3.1.2. Khó khăn. Bên cạnh những thuận lợi nói trên cũng gặp không ít khó khăn như sau: Có một số cháu bắt đầu đi học nên còn khóc nhiều chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt của lớp trẻ còn bỡ ngỡ. Mỗi cháu lại có những sở thích và cá tính khác nhau. Nên việc chuyền đạt ngôn ngữ cho trẻ cũng rất khó khăn. - Trẻ chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp - Vốn từ của trẻ còn hạn chế. - Trình độ nhận thức của trẻ trong một lớp không đồng đều. - Trí nhớ của trẻ còn hạn chế chính vì vậy mà trẻ chưa biết cách sắp xếp trật tự các từ trong câu nên khi phát âm trẻ thường bỏ bớt từ. Cách diễn đạt lời nói của trẻ chưa tốt . - 60% trẻ phát âm chưa chính xác hay có những trẻ còn nói ngọng chữ x thì phát âm thành chữ s,thiếu từ như cô Hương thì trẻ nói cô Ương, dấu ngã - dấu sắc, dấu hỏi - dấu nặng. - Nhận thức về giáo dục mầm non nói chung và phát triển ngôn ngữ tiếng việt cho trẻ của một bộ phận phụ huynh chưa đúng mực, chưa quan tâm trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói để uốn nắn cho trẻ về ngôn ngữ . 3.1.3. Kết quả :
- Từ những khó khăn trên đã ảnh hưởng đến chất lượng giờ dạy. Qua khảo sát thực trạng với vai trò là một giáo viên tôi luôn trăn trở để tìm ra những biện pháp tốt nhất kiến thức tốt nhất, để trẻ phát triển được vốn từ một cách có hiệu quả. Để làm được điều này vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng trẻ và thấy kết quả như sau: * Kết quả điều tra của đầu năm như sau: Phân loại khả năng Đạt Không đạt Sl % Sl % Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm 14 66.6 7 33.3 Vốn từ 10 47.6 11 52.3 Khả năng nói đúng ngữ pháp 7 33.3 14 66.6 Khả năng giao tiếp 11 52.3 10 47.6 * Nguyên nhân thực trạng: Trình độ nhận thức của trẻ trong một lớp không đồng đều (vì có trẻ trong lớp sinh tháng 1-2 nhưng có trẻ trong lớp sinh tháng 10 -11-12). Tháng tuổi của trẻ chênh lệch nhau về tháng sinh quá xa ở lứa tuổi này sẽ dẫn đến sự chênh lệch về trình độ nhận thức, sự hiểu biết, ngôn ngữ.. - Đặc điểm của trẻ mẫu giáo bé 3 – 4 tuổi rất thích được trò chuyện, giao tiếp, thích được nói, nhưng ngôn ngữ, vốn từ của trẻ còn rất hạn chế, còn sử dụng ngôn ngữ thụ động nhiều. - Chưa được tác động, kích thích kịp thời để trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Từ thực tế kết quả trên, tôi luôn suy nghĩ tìm tòi các giải pháp tối ưu để áp dụng nhằm phát triển vốn từ cho trẻ có hiệu quả nhất kích thích tính tò mò, sự ham hiểu biết của trẻ để tạo hứng thú cho trẻ khi tham gia vào các hoạt động. Bản thân tôi đã xác định tìm ra các giải pháp hữu ích nhất
- 3.2: Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến: - Mục đích của giải pháp: Trẻ ở lứa tuổi 3-4 tuổi còn nhỏ rất hiếu động, thích tìm tòi, khám phá mọi thứ xung quanh.Trẻ thường có những thắc mắc trước những đồ vật. Hiện tượng mà trẻ nhìn thấy, nghe thấy, trẻ thường đặt ra rất nhiều câu hỏi như: Ai đây? Cái gì đây? Con gì đây? Để giải đáp được những thắc mắc hàng ngày người lớn cần trả lời những câu hỏi của trẻ rõ ràng, ngắn gọn đồng thời cần cung cấp cho trẻ thêm hiểu biết về thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ giao tiếp mạch lạc. Chính vì vậy mà mỗi giáo viên chăm sóc giáo dục trẻ cần trú trọng đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đó là nhịêm vụ quan trọng hàng đầu. Bởi ngôn ngữ là phương tiện để trẻ tiếp thu kiến thức về thế giới xung quanh được dễ dàng và hiệu quả nhất. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy trẻ tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp dạy trẻ phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé Trường mầm non Hồng Việt thông qua một số hoạt động sau: -Nội dung giải pháp: 3.2.1. Giáo viên cần hiểu tâm sinh lý của trẻ: *Đặc điểm phát âm: Trẻ đã phát âm được các âm khác nhau. Phát âm được các âm của lời nói nhưng vẫn còn ê a. Trẻ hay phát âm sai ở những từ khó, những từ có 2/ 3 âm tiết như: Lựu/ lịu, hươu/ hiu, hoa sen / hoa seng, thuyền buồm/ thiền bồm . *Đặc điểm vốn từ: Vốn từ của trẻ còn rất ít. Danh từ và động từ ở trẻ chiếm ưu thế. Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ đồ vật con vật, hành động trong giao tiếp quen thuộc hàng ngày. Những các từ chỉ khái niệm tương đối như: Hôm qua, hôm nay, ngày mai trẻ sử dụng chưa chính xác. Một số trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: màu xanh, màu đỏ, màu vàng . Đã biết sử dụng các từ thể hiện sự lễ phép với người lớn trong giao tiếp như: Cảm ơn cô, vâng, dạ * Sắp xếp cấu trúc lời nói: Cách diễn đạt nội dung, sự liên kết các câu nói lại với nhau
- tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dung ngắn gọn nào đó để giúp người nghe hiểu được, đối với một số trẻ là đơn giản - Nhưng đối với một số trẻ khác nhỏ tháng hơn lại là rất khó. Nếu yêu cầu trẻ kể lại một câu chuyện hay tả lại một sự kiện, hiện tượng xảy ra đối với trẻ thì trẻ gặp khó khăn. Cần phải tập luyện dần dần. *Diễn đạt nội dung nói: - Cách diễn đạt nội dung của trẻ ở lứa tuổi này còn ê a, ậm ừ . Đôi khi chưa diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản. - Còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin trong khi giao tiếp. *Đặc điểm ngữ pháp: Trẻ nói được 1 số câu đơn giản, biết thể hiện nhu cầu mong muốn và hiểu biết của mình bằng 1 hay 2 câu. VD: Cô ơi ! Con uống nước, con đi vệ sinh Trẻ đọc được các bài thơ, hát được các bài hát có 3 đến 5 câu ngắn. Trẻ có thể kể lại 1 đoạn truyện được nghe nhiều lần, có sự gợi ý. Tuy nhiên, đôi khi sự sắp xếp các từ trong câu còn chưa hợp lý. Trẻ thường sử dụng câu cụt. VD: Nước, uống nước, Trong 1 số trường hợp trẻ dùng từ trong câu còn chưa chính xác, chủ yếu trẻ sử dụng câu đơn mở rộng. 3.2.2. Giáo viên cần giúp trẻ phát triển vốn từ, mạnh dạn, tự tin : Phát triển ngôn ngữ cho trẻ chính là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ, khả năng trình bày có logic có trình tự, chính xác một nội dung nhất định. Để trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp với mọi người với ngôn ngữ mạch lạc, giúp người nghe dễ hiểu thì trước hết cần: * Làm phong phú vốn từ cho trẻ: Trẻ phải có vốn từ nhất định để giao tiếp với mọi người xung quanh, vì vậy giáo viên phải là người cung cấp vốn từ cho trẻ. VD: Qua môn PT tình cảm kỹ năng xã hội cô cung cấp cho trẻ từ chỉ đồ vật: cái bàn, cái ghế, cái áo, cái mũ,..từ chỉ con vật : con bò, con chó, con mèo ., màu sắc xanh, đỏ, vàng Qua môn thơ, chuyện cung cấp tên bài thơ, tên câu chuyện, tên nhân vật, những vần thơ hay, lời đối thoại của nhân vật . * Lựa chọn nội dung nói:
- Trẻ ở lứa tuổi 3 - 4 tuổi còn nhỏ nên chưa có khả năng lựa chọn nội dung diễn đạt vì vậy giáo viên cần phải hướng dẫn giúp trẻ. - Xác định nội dung cần nói của trẻ có nội dung thông báo ngắn gọn, rõ ràng. Xác định sự việc chính trong nhiều sự việc, xác định đặc điểm nổi bật, cơ bản của con vật, của cây, của đồ vật, của bức tranh, nội dung chính trong tác phẩm văn học VD: Về đồ vật: Tên gọi, hình dáng, công dụng, cách sử dụng. Về con vật: Tên gọi, hình dáng, tiếng kêu, lợi ích . Về cây: Tên gọi, hình dáng, màu sắc, công dụng. - Sắp xếp nội dung đã lựa chọn cho lời nói của trẻ được đầy đủ, hợp lí và logic. VD: Cho trẻ nhận biết gọi tên: Từ tổng quát đến chi tiết. - Từ đầu đến chân, từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới, từ trái qua phải .. * Lựa chọn từ: Sau khi đã lựa chọn nội dung rồi thì trẻ cần lựa chọn từ để diễn tả chính xác nội dung mình cần thông báo. Chọn từ giúp cho lời nói của trẻ rõ ràng, chính xác và mang sắc thái biểu cảm. Sự liên kết cái câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dung nào đó giúp người ta hiểu được đây là sự sản xuất toàn bộ nội dung thông báo một cách có logic. Để diễn tả một ý, một nội dung ngắn ngọn nào đó thì việc sắp xếp cấu trúc lời nói là đơn giản đối với một số trẻ, nhưng khó khăn với một số trẻ còn ít tháng . Nhưng yêu cầu kể lại truyện hay những hiện tượng, sự kiện xảy ra trong đời sống thì trẻ gặp khó khăn. Chính vì vậy mà giáo viên phải rèn cho trẻ dần dần chứ không phải là việc làm có thể khắc phục ngay được. 3.2.3: Xây dựng kế hoạch phát triển ngôn ngữ cho trẻ theo từng tháng xuyên suốt 1 năm học: * Tháng 9, 10: Phát triển khả năng nghe hiểu cho trẻ: Chọn những bài tập luyện tai nghe cho trẻ nhằm phát triển thính giác, cho trẻ nghe những bài hát, những câu truyện, những bài đồng dao, Tạo điều kiện để trẻ tập chung chú ý luyện khả năng chú ý thính giác cho trẻ thông qua các bài tập, trò chơi: Tai ai thính ? Ai đoán giỏi?... Cố gắng phát âm đúng, không phát âm sai vì trẻ hay bắt trước. Sửa lỗi phát âm cho trẻ khi trẻ phát âm sai ở mọi lúc mọi nơi trong các hoạt động hàng ngày. * Tháng 11, 12: Nghe, nhắc lại các âm, tiếng và câu nhằm phong phú vốn từ cho trẻ: Giáo viên cần nói diễn cảm, rõ ràng,
- giải thích nghĩa của từ khó giúp cho trẻ hiểu, nhớ và vận dụng được các từ để đặt câu. Để đẩy mạnh sự phát triển, khả năng vận động của cơ quan phát âm, cần tập cho trẻ các bài tập luyện cơ quan phát âm thích hợp: VD: Con có cái ca, cô cắt quả cà, con cầm cái ca, cùng cười ha ha.. Có con Ba Ba, đội nhà đi trốn, bì bà bì bõm, bé bắt Ba Ba. Bà bảo bé, bé bế búp bê, bé bồng, bé bế, búp bê ngoan nào. Cô tổ chức những trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ: VD: Trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật, ai nhanh hơn, thi xem ai giỏi hơn. *Tháng 1, 2: Vẫn xuyên suốt 2 nhiệm vụ trên nhưng đào sâu vấn đề luyện trí nhớ cho trẻ qua cái bài thơ, đồng dao, bài đồng dao được phổ nhạc như bài: “Con kiến mà leo cành đa, leo phải cành cụt, leo vào leo ra” ...., đặc biệt là những câu chuyện kể đầy hấp dẫn và lôi cuốn. Gợi ý cho trẻ sử dụng những loại câu đơn giản đủ nghĩa. *Tháng 3, 4, 5: Xây dựng những trò chơi giúp trẻ nói đúng ngữ pháp, nói mạch lạc. VD: Trẻ nói theo mẫu câu của 1 câu truyện nào đó: < Chiếp chiếp cứu tôi với. Con xin lỗi mẹ >. cho trẻ chơi từ dễ đến khó, các mẫu câu phức tạp gần lên. Để củng cố kĩ năng nói đúng ngữ pháp, pháp triển trí tưởng tượng, sáng tạo của trẻ. Một khi đã có một số lượng vốn từ phong phú trẻ sẽ tự tin giao tiếp với mọi người một cách hứng thú hơn. 3.2.4: Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi: a. Giờ đón trẻ: Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, niềm nở, để lôi cuốn trẻ tới trường, tới lớp cô phải thật gần gũi bên trẻ, cô tích cực trò chuyện với trẻ. Vì trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ. VD: Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ: + Gia đình con có những ai? + Bố mẹ con tên gì + Bố mẹ làm nghề gì? + Nhà con ở đâu? - Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của
- mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn. Ngoài ra trong giờ đón trẻ, trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà, bố, mẹ, anh, chị, em, và mọi người xung quanh, như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép, biết vâng lời. b. Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc: Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở trường, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau. VD1: Trong góc “Hoạt động với đồ vật” ở chủ điểm “Gia đình” tôi hỏi trẻ: + Các con ơi, các con đang chơi gì vậy? (Con đang chơi khám bệnh ạ) + Con khám bệnh bằng đồ vật gì? (Con khám bệnh bằng ống nghe ạ) + Muốn không bị bệnh thì con phải làm như thế nào? Qua đó giáo viên hướng dẫn trẻ biết cách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ. Hướng dẫn trẻ cách vệ sinh cá nhân, cô hướng dẫn trẻ phải rửa tay trước và sau khi ăn. c. Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời: - Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như: Đu quay, cầu trượt, nhà bóng, .... Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết về nhiều cây xanh ở trường và hỏi trẻ: + Cây rau này có màu gì? (Trẻ trả lời màu xanh) * Giáo dục: Cô giới thiệu trẻ về cây rau và dặn trẻ về ăn thêm rau xanh để cung cấp thêm nhiều chất xơ và dinh dưỡng (vâng ạ) - Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn. - Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và
- yêu cầu trẻ nhắc lại. 3.2.5: Giáo dục ngôn ngữ thông qua các giờ học khác: a. Thông qua giờ nhận biết tập nói: Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ. Trẻ ở lứa tuổi 3-4 đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc. VD1: Để trẻ nhận biết được đồ vật vật thật hoặc tranh ảnh về đồ vật (con vật) để cho trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn ..nhằm phát huy tính tích cực và tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích cho trẻ. - Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ thống câu hỏi: + Đây là con gì? + Đố các bạn biết con vật này sống ở đâu? Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc, thiếu từ cô phải sửa ngay cho trẻ. VD2 : Khi dạy bài các phương tiện giao thông tôi cho trẻ quan sát tranh và ra các câu hỏi yêu cầu từng trẻ trả lời: + Cho trẻ quan sát tranh nhận biết các phương tiện giao thông + Công dụng của một số phương tiện giao thông đường bộ. - Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ thực tế: Khi ra đường chúng ta phải đi bên nào vậy các con + Trẻ đồng thanh trả lời: Dạ bên phải ạ. b. Thông qua giờ kể truyện, đọc thơ. Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện.
- Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo : + Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh cho trẻ. + Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi. + Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng đọc phải rõ ràng đọc diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật. - Trong các tiết dạy tôi đã đưa ra các bức tranh có các nhân vật, thể hiện được nội dung chủ đề. Tôi hướng dẫn trẻ quan sát một cách chi tiết những nội dung thể hiện trong tranh, trẻ rất hứng thú quan sát và từ đó hình thành kỹ năng cho trẻ. Trẻ không chỉ nhắc lời nói của cô giáo mà trẻ thể hiện sự hiểu biết của mình qua lời nói của trẻ. *Tranh truyện: Tranh vẽ tóm tắt, khái quát, tình tiết, hình ảnh màu sắc gợi cảm xúc, hứng thú, cuốn hút trẻ để trẻ tưởng tượng ra được nội dung của truyện. - Bên cạnh đó dụng công nghệ thông tin sưu tầm băng đĩa có nội dung câu chuyện trong các chủ đề cho trẻ quan sát tạo thêm sự hứng thú cho trẻ hoặc trên vi tính: vẽ, cắt, dán, làm hiệu ứng chạy PowerPoin presentation trên máy. Ví dụ: Câu chuyện “Nhổ củ cải”. Tôi sử dụng giọng điệu thể hiện các câu gọi của: ông già, bà già, cô cháu gái, con chó, con mèo, chuột nhắt, lớn nhanh như thổi, Nhấn mạnh các từ, khổng lồ to chưa từng thấy ( hai tay đưa ra trước, lên cao), nhổ mãi, nhổ mãi.... - Lần 2: Tôi luôn sử dụng với đồ dùng trực quan để tạo hứng thú cho trẻ và để trẻ hiểu nội dung câu chuyện, tính cách của nhân vật qua hình ảnh minh học. Tôi thường sử dụng nhiều đồ dùng trực quan khác nhau như tranh minh họa, phim hoạt hình..... Trong mỗi câu truyện tôi thường nghiên cứu kỹ và tìm hiểu những nội dung chính cần truyền đạt, giảng giải tới trẻ một cách ngắn gọn dễ hiểu. - Cô vừa Kể cho các con nghe chuyện gì? - Truyện có những nhân vật nào? - Ông già mang về cây gì?